Thứ nhất, về nguyên tắc chứng minh. Một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật tố tụng hình sự nói chung là nguyên tắc suy đoán vô tội. Điều này có nghĩa là khi bạn bị cơ quan có thẩm quyền bắt giữ thì nghĩa vụ chứng minh bạn có phạm tội thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, cơ quan công tố). Bạn không có nghĩa vụ phải tự chứng minh mình vô tội. Trong trường hợp, các cơ quan có thẩm quyền này không thể chứng minh được bạn phạm tội thì bạn sẽ được xem là vô tội theo nguyên tắc suy đoán vô tội.
Ngược lại, trong pháp luật tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh là của các đương sự. Nghĩa là, khi bạn nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết 1 tranh chấp dân sự nào đó, bạn có nghĩa vụ phải tìm những chứng cứ, tự lập luận, chứng minh cho đơn khởi kiện của mình là đúng. Bên cạnh đó, trong vai trò bị đơn, người bị khởi kiện cũng phải tự mình thu thập chứng cứ và chứng minh rằng yêu cầu của nguyên đơn là không hợp lý. Hay nói một cách khái quát hơn, trong một vụ án dân sự, Tòa án đóng vai trò một người trung gian xem xét, nhìn nhận chứng cứ do 2 bên đưa ra và phân xử.
Thứ hai, về nguyên tắc thỏa thuận. Pháp luật hình sự là pháp luật công, việc bạn vi phạm pháp luật hình sự nghĩa là bạn đã vi phạm trật tự xã hội do Nhà nước thiết lập. Do vậy, bạn không có quyền thỏa thuận mình có phạm tội hay không.
Chẳng hạn như A cướp tài sản của B, sau khi bị truy tố bởi Viện kiểm sát thì A đến gặp B và đưa ra đề nghị bồi thường gấp đôi giá trị tài sản mà B bị cướp để B rút đơn khởi kiện đối với A. Thỏa thuận này sẽ là vô hiệu bởi lẽ hành vi của A được đánh giá là hành vi nguy hiểm cho xã hội do xâm phạm trật tự công. Dù B có rút đơn khởi kiện thì A vẫn bị xét xử theo pháp luật hình sự.
Trái lại, tôn trọng sự thỏa thuận tự nguyện, phù hợp với pháp luật của các bên là nguyên tắc tối quan trọng của pháp luật dân sự. Chẳng hạn như A nợ B 500 triệu đồng nhưng không trả, A làm đơn khởi kiện tại Tòa án yêu cầu B trả. Ngay sau đó, A và B thỏa thuận một cách tự nguyện được rằng A sẽ trả cho B 100 triệu và B sẽ xóa nợ hoàn toàn cho A. Lúc này, Tòa án sẽ tôn trọng thỏa thuận của các bên chứ không thể ra 1 phán quyết bắt A phải trả toàn bộ số tiền này.