14 hành vi bị nghiêm cấm trong Luật khí tượng thủy văn 2015.

14 hành vi bị nghiêm cấm trong Luật khí tượng thủy văn 2015.
Ngày 23/11/2015, Quốc hội thông qua Luật khí tượng thủy văn 2015 (gồm 10 Chương, 57 Điều). Luật khí tượng thủy văn 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016.




Khí tượng thủy văn là gì?

Khí tượng thuỷ văn là cụm từ chỉ chung khí tượng, thuỷ văn và hải văn.

Khí tượng (hay Khí tượng học, Meteorology có nguồn gốc từ tiếng Hy-Lạp “μετεωρΟλόγια”, có nghĩa là “khoa học về các hiện tượng khí quyển”) là khoa học nghiên cứu các quá trình và các hiện tượng của khí quyển. Việc nghiên cứu không chỉ bao gồm vật lý, hoá hoc và động lực học của khí quyển mà nó còn mở rộng ra và bao gồm cả những hiệu ứng trực tiếp của khí quyển lên bề mặt trái đất, đại dương và cuộc sống nói chung thông qua các yếu tố và hiện tượng khí tượng. . Các yếu tố khí tượng chủ yếu bao gồm nhiệt độ, khí áp, độ ẩm, gió, mây, mưa. Chúng luôn biến động theo thời gian và không gian trong mối tương tác lẫn nhau theo những quy luật phức tạp của tự nhiên.

Thuỷ văn (hay Thuỷ văn học, Hydrology có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Yδρoλoγια” có nghĩa là khoa học về nước) là khoa học nghiên cứu về tính chất, sự chuyển động và phân bố của nước (thể lỏng và thể rắn) trong toàn bộ Trái đất. Nó có quan hệ tương tác về vật lý và hoá học của nước với phần còn lại của Trái đất và quan hệ của nó với sự sống của Trái đất, và như vậy nó bao gồm cả chu trình thuỷ văn và tài nguyên nước.

* Để bảo đảm nguồn lực cho việc xây dựng, quản lý, khai thác mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia; dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn; giám sát biến đổi khí hậu phục vụ chung cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia và phòng, chống thiên tai nên Quốc hội đã ban hành Luật khí tượng hải văn 2015.

Nhằm để nghiêm cấm những hành vi xâm hại và gây cản trở đến lĩnh vực này, Luật khí tượng thủy văn đã quy định 14 hành vi bị nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị xử phạt.

Cụ thể, tại Điều 8 của Luật khí tượng thủy văn đã quy định:

1. Lợi dụng hoạt động khí tượng thủy văn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

2. Lấn, chiếm khoảng không, diện tích mặt đất, dưới đất, mặt nước, dưới nước của công trình khí tượng thủy văn.

3. Vi phạm quy định hành lang kỹ thuật công trình khí tượng thủy văn.

4. Làm ảnh hưởng đến công trình, phương tiện đo khí tượng thủy văn.

5. Xâm hại công trình, phương tiện đo khí tượng thủy văn, thiết bị thông tin, các thiết bị kỹ thuật khác của công trình khí tượng thủy văn; va đập vào công trình; đập phá, dịch chuyển các mốc độ cao.

6. Cản trở việc quản lý, khai thác công trình khí tượng thủy văn.

7. Hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn mà không có giấy phép hoặc trái với giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.

8. Khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn trái quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.

9. Cố ý vi phạm quy chuẩn kỹ thuật, quy trình chuyên môn trong hoạt động khí tượng thủy văn.

10. Tác động vào thời tiết khi không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch tác động vào thời tiết hoặc trái với kế hoạch được phê duyệt.

11. Che giấu, không cung cấp hoặc cố ý cung cấp sai lệch, không đầy đủ, không kịp thời thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn.

12. Làm trái quy định về truyền, phát tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn.

13. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc vượt quá quyền hạn của người có thẩm quyền để làm trái quy định của pháp luật về khí tượng thủy văn.

14. Lợi dụng hoạt động hợp tác quốc tế về khí tượng thủy văn, giám sát biến đổi khí hậu để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

=>Như vậy, hành động lấn chiếm và lợi dụng công trình khí tượng thủy văn đã bị nghiêm cấm. Đồng thời, các hành vi như lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định về khí tượng thủy văn hay lợi dụng hoạt động quốc tế về khí tượng thủy văn để thực hiện hành vi trái pháp luật cũng bị nghiêm cấm. Từ đó, ta thấy được các thông tin, dữ liệu, công trình,… về khí tượng thủy văn đã được đảm bảo hoàn toàn => Phát triển khoa học và công nghệ về khí tượng thủy văn, giám sát biến đổi khí hậu nhanh chóng hơn.

Lưu ý: Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thủy văn 1994 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.

Read More

Phương pháp tính thuế Giá trị gia tăng

Phương pháp tính thuế Giá trị gia tăng
Tổng cục Thuế vừa ban hành Công văn 5460/TCT-KK hướng dẫn tiếp nhận mẫu 06/GTGT đối với doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX) mới thành lập trong năm. 




Theo đó:

1. Đối với DN, HTX mới thành lập vào quý 4 hàng năm (từ 01/10 đến 31/12)

Việc xác định phương pháp tính thuế GTGT và thời gian ổn định phương pháp tính thuế GTGT được thực hiện theo hướng dẫn tại công văn số 1097/TCT-KK ngày 30/3/2015 của Tổng cục Thuế.

Cụ thể, công văn số 1097/TCT-KK quy định về trường hợp trên như sau:

- Trường hợp doanh nghiệp, HTX mới thành lập khi xác định thuộc trường hợp được đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thì phải nộp mẫu 06/GTGT đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp trước thời hạn nộp HSKT đầu tiên phát sinh. Nếu đến thời hạn nộp HSKT đầu tiên NNT không nộp mẫu 06/GTGT thì NNT thuộc trường hợp áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp.

- Trường hợp doanh nghiệp, HTX mới thành lập trong quý IV năm 2014 khi xác định thuộc đối tượng được đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ chỉ phải nộp 01 lần mẫu 06/GTGT để đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ cho quý IV, năm 2014 và 2015. Đến trước ngày 20/12/2015 doanh nghiệp, HTX căn cứ vào cách xác định doanh thu quy định tại khoản 2 Điều 12 Thông tư 219/2014/TT-BTC để áp dụng phương pháp khấu trừ cho hai năm 2016 và 2017. Áp dụng tương tự cho các trường hợp NNT thành lập mới trong quý IV của các năm tiếp theo sau năm 2014.


2. Đối với DN, HTX mới thành lập từ 01/01 đến 30/9 hàng năm

a) Về nguyên tắc xác định doanh thu khi hết năm dương lịch đầu tiên:

Trường hợp DN, HTX mới thành lập từ 01/01 đến 30/9 hàng năm, hoạt động sản xuất kinh doanh không đủ 12 tháng thì xác định doanh thu ước tính của năm như sau: Tổng cộng của chỉ tiêu “Tổng doanh thu của HHDV bán ra chịu thuế GTGT” trên Tờ khai thuế GTGT của kỳ tính thuế các tháng hoặc quý hoạt động sản xuất kinh doanh chia (:) số tháng hoạt động sản xuất kinh doanh và nhân với (x) 12 tháng. Việc xác định doanh thu theo nguyên tắc này không phân biệt DN, HTX thực hiện khai theo tháng hoặc quý.

b) Về thời điểm gửi mẫu 06/GTGT

- Đối với trường hợp DN, HTX đang áp dụng phương pháp khấu trừ

+ Doanh nghiệp, HTX có ước tính doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên và thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ thì tiếp tục áp dụng phương pháp khấu trừ thuế ổn định trong 02 năm tiếp theo và không phải gửi mẫu 06/GTGT đến cơ quan thuế.

+ Doanh nghiệp, HTX ước tính không đạt mức doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên nhưng thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ thì được đăng ký tự nguyện tiếp tục áp dụng phương pháp khấu trừ thuế và phải gửi mẫu 06/GTGT đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp trước 20/12 của năm trước liền kề năm người nộp thuế thực hiện phương pháp tính thuế, cho chu kỳ ổn định 02 năm tiếp theo. Nếu không nộp mẫu 06/GTGT thì DN, HTX áp dụng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp cho năm tiếp theo.

- Đối với trường hợp DN, HTX đang áp dụng phương pháp trực tiếp

Doanh nghiệp, HTX mới thành lập đang áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp thì phải thực hiện ổn định phương pháp tính thuế đến hết năm dương lịch đầu tiên. Nếu muốn chuyển đổi phương pháp tính thuế GTGT sang khấu trừ thì phải gửi mẫu 06/GTGT đến cơ quan thuế chậm nhất ngày 20/12 của năm trước liền kề năm người nộp thuế thực hiện phương pháp tính thuế mới. Nếu DN, HTX không nộp mẫu 06/GTGT thì tiếp tục áp dụng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp cho năm tiếp theo.

*Công văn 5460/TCT-KK có hiệu lực từ ngày 18/12/2015 do Tổng cục Thuế hướng dẫn.

Read More

4 trường hợp chứng thư số bị thu hồi.

4 trường hợp chứng thư số bị thu hồi.
Ngày 18/12/2015, Thông tư 28/2015/TT-NHNN đã ban hành. Thông tư 28/2015/TT-NHNN quy định về việc quản lý, sử dụng chữ ký số, chứng thư số và dịch vụ chứng thực chữ ký số của ngân hàng nhà nước. Thông tư 28/2015/TT-NHNN sẽ có hiệu lực từ ngày 01/02/2016.



Chứng thư số là gì?

- Chứng thư số là một dạng chứng thư điện tử do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số cấp.

- Chứng thư số có thể được xem như là một “chứng minh thư” sử dụng trong môi trường máy tính và Internet.

- Chứng thư số được sử dụng để nhận diện một cá nhân, một máy chủ, hoặc một vài đối tượng khác và gắn định danh của đối tượng đó với một khoá công khai (public key), được cấp bởi những tổ chức có thẩm quyền xác nhận định danh và cấp các chứng thư số.

- Chứng thư số được tạo bởi nhà cung cấp dịch vụ chứng thực, trong đó chứa publickey của người dùng và các thông tin của người dùng theo chuẩn X.509.

Theo như Thông tư 28/2015/TT-NHNN thì sẽ có 4 trường hợp bị thu hồi chứng thư số. Cụ thể, tại Điều 9 của Thông tư này đã quy định như sau:

Chứng thư số của thuê bao bị thu hồi trong các trường hợp sau:

1. Theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan an ninh hoặc Bộ Thông tin và Truyền thông;

2. Theo yêu cầu bằng văn bản của tổ chức quản lý thuê bao;

3. Tổ chức quản lý thuê bao giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật;

4. Có đủ căn cứ xác định thuê bao vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng khóa bí mật và thiết bị lưu giữ khóa bí mật theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 15 Thông tư này.

Ngoài ra, Điều 9 còn quy định thêm:

- Tổ chức quản lý thuê bao gửi Giấy đề nghị thu hồi chứng thư số theo Mẫu biểu 06 đính kèm Thông tư này qua mạng, nộp trực tiếp hoặc theo đường bưu điện đến tổ chức cung cấp dịch vụ chữ ký số.

-  Khi có các thông tin, yêu cầu như Khoản 1 Điều này, tổ chức cung cấp dịch vụ chữ ký số lập tức tiến hành thu hồi chứng thư số, thông báo kết quả qua mạng hoặc qua đường bưu điện trong thời hạn 05 ngày làm việc và cập nhật thông tin trên trang thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước.

*Trong 4 trường hợp mà chứng thư số bị thu hồi, có một trường hợp vi phạm về quy định quản lý, sử dụng khóa bí mật và thiết bị lưu giữ khóa bí mật. Cụ thể, Khoản 1 và Khoản 2 củ Điều 15 quy định về trách nhiệm của thuê bao như sau:

1. Sử dụng chứng thư số đúng mục đích đã được cấp.

2. Bảo quản và sử dụng khóa bí mật, các dữ liệu trong thiết bị lưu giữ khóa bí mật theo chế độ “Mật”; không chia sẻ, cho mượn mã khóa bí mật, thiết bị lưu giữ khóa bí mật của chứng thư số.

=>Như vậy, căn cứ để xác định 1 thuê bao vi phạm là thuê bao này có sử dụng chứng thư số đúng mục đích hay không. Ngoài ra nếu thuê bao không lưu giữ các dữ liệu theo chế độ “mật” và chia sẻ, mượn mã khóa thì đây chính là hành vi vi phạm quy định về chứng thư số và sẽ bị thu hồi theo quy định của pháp luật.





Read More

6 đối tượng được miễn, giảm phí, lệ phí.

6 đối tượng được miễn, giảm phí, lệ phí.
Ngày 25/11/2015, Quốc hội thông qua Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13. Luật phí và lệ phí 2015 quy định chi tiết về một vấn đề như: nguyên tắc xác định mức thu phí và lệ phí, kê khai, thu nộp phí và lệ phí, quản lý và sử dụng phí, lệ phí, quyền và trách nhiệm của tổ chức thu và người nộp phí và lệ phí,... Luật phí và lệ phí 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017.



Phí là gì?

Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ.

Lệ phí là gì?

Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước.

Theo như Điều 10 Luật phí và lệ phí 2015 quy định thì có 6 đối tượng (chưa bao gồm các đối tượng đặc biệt theo quy định của pháp luật) được miễn, giảm phí và lệ phí; đồng thời, có 3 trường hợp có thẩm quyền miễn, giảm phí và lệ phí cho người khác.


1. Trẻ em
2. Hộ nghèo
3. Người cao tuổi
4. Người khuyết tật
5. Người có công với cách mạng
6. Đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Ngoài ra, còn có một số đối tượng đặc biệt theo quy định của pháp luật cũng được miễn, giảm phí và lệ phí.

Đồng thời, Luật này quy định rõ thẩm quyền miễn, giảm phí và lệ phí như sau: 

1. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể đối tượng được miễn, giảm án phí và lệ phí tòa án.

2. Chính phủ quy định cụ thể đối tượng được miễn, giảm đối với từng khoản phí, lệ phí thuộc thẩm quyền. 

3. Bộ trưởng Bộ Tài chính, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể đối tượng được miễn, giảm đối với từng khoản phí, lệ phí thuộc thẩm quyền.

Pháp lệnh phí và lệ phí 2001 và Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án 2009 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/01/2017).

Read More

10 thay đổi mà doanh nghiệp và hộ kinh doanh dịch vụ kế toán phải thông báo cho Bộ Tài chính

10 thay đổi mà doanh nghiệp và hộ kinh doanh dịch vụ kế toán phải thông báo cho Bộ Tài chính
Từ ngày 01/01/2017, Luật kế toán 2015 bắt đầu có hiệu lực thi hành. Luật kế toán 2003 sẽ hết hiệu lực kể từ ngày Luật kế toán 2015 có hiệu lực thi hành.




Trước đây, Luật kế toán 2003 đã có quy định về các mục như: chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, số kế toán,… Thế nhưng chưa hề quy định về việc doanh nghiệp và hộ kinh doanh dịch vụ kế toán phải thông báo những thay đổi cho Bộ tài chính.

Sở dĩ, phải thông báo những thay đổi này cho Bộ tài chính là để cho việc kiểm tra dịch vụ kế toán, kiểm toán viên,.. được tốt hơn. Từ đó, có thể quản lý tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp này.

Theo như Điều 66 của Luật kế toán 2015 quy định thì:

1. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có thay đổi về một trong các nội dung sau đây, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Tài chính:

a) Danh sách kế toán viên hành nghề tại doanh nghiệp;

b) Không bảo đảm một, một số hoặc toàn bộ các điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán quy định tại Điều 60 của Luật này;

c) Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;

d) Giám đốc hoặc tổng giám đốc, người đại diện theo pháp luật, tỷ lệ vốn góp của các thành viên;

đ) Tạm ngừng kinh doanh dịch vụ kế toán;

e) Thành lập, chấm dứt hoạt động hoặc thay đổi tên, địa chỉ trụ sở chi nhánh kinh doanh dịch vụ kế toán;

g) Thực hiện việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi, giải thể.

2. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có thay đổi về một trong các nội dung sau đây, hộ kinh doanh dịch vụ kế toán phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Tài chính:

a) Danh sách kế toán viên hành nghề;

b) Tên, địa chỉ của hộ kinh doanh;

c) Tạm ngừng hoặc chấm dứt kinh doanh dịch vụ kế toán.

Trong điểm b của Khoản 1 Điều 66 có đề cập đến Điều 60 quy định về điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán. Vậy Điều 60 quy định như thế nào?

1. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc giấy tờ khác có giá trị tương đương theo quy định của pháp luật;

b) Có ít nhất hai thành viên góp vốn là kế toán viên hành nghề;

c) Người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn phải là kế toán viên hành nghề;

d) Bảo đảm tỷ lệ vốn góp của kế toán viên hành nghề trong doanh nghiệp, tỷ lệ vốn góp của các thành viên là tổ chức theo quy định của Chính phủ.

2. Công ty hợp danh được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc giấy tờ khác có giá trị tương đương theo quy định của pháp luật;

b) Có ít nhất hai thành viên hợp danh là kế toán viên hành nghề;

c) Người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty hợp danh phải là kế toán viên hành nghề.

3. Doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc giấy tờ khác có giá trị tương đương theo quy định của pháp luật;

b) Có ít nhất hai kế toán viên hành nghề;

c) Chủ doanh nghiệp tư nhân là kế toán viên hành nghề và đồng thời là giám đốc.

4. Chi nhánh doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài tại Việt Nam được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ kế toán theo quy định của pháp luật của nước nơi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài đặt trụ sở chính;

b) Có ít nhất hai kế toán viên hành nghề, trong đó có giám đốc hoặc tổng giám đốc chi nhánh;

c) Giám đốc hoặc tổng giám đốc chi nhánh doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài không được đồng thời giữ chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp khác tại Việt Nam;

d) Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài phải có văn bản gửi Bộ Tài chính bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.

5. Trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày đăng ký kinh doanh dịch vụ kế toán mà doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán, chi nhánh doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài tại Việt Nam không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán hoặc trong trường hợp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán đã bị thu hồi thì doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài tại Việt Nam phải thông báo ngay cho cơ quan đăng ký kinh doanh để làm thủ tục xóa cụm từ “dịch vụ kế toán” trong tên gọi của doanh nghiệp, chi nhánh.

=>Như vậy, có 7 thay đổi mà doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán phải thông báo cho Bộ tài chính; còn đối với hộ kinh doanh dịch vụ kế toán là 3 thay đổi cần phải thông báo. Việc thông báo những thay đổi cho Bộ tài chính phải thông qua văn bản và riêng điểm b Khoản 1 của Điều 66 phải áp dụng đúng quy định tại Điều 60 của Luật này.

Read More

6 hành vi bị nghiêm cấm trong Luật an toàn thông tin mạng.

6 hành vi bị nghiêm cấm trong Luật an toàn thông tin mạng.
Ngày 19/11/2015, Quốc hội đã thông qua Luật an toàn thông tin mạng 2015. Luật an toàn thông tin mạng sẽ có hiệu lực từ ngày 01/07/2016.




An toàn thông tin là gì?

An toàn thông tin có mục đích là phải tổ chức việc xử lý, ghi nhớ và trao đổi thông tin sao cho tính cẩn mật, toàn vẹn, sẵn sàng và đáng tin cậy được bảo đảm ở mức độ đầy đủ.

Ngày nay vấn đề an toàn thông tin được xem là một trong những quan tâm hàng đầu của xã hội, có ảnh hưởng rất nhiều đến hầu hết các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật,khoa học xã hội và kinh tế.

=>Chính vì an toàn thông tin được xem như là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu nên an thông tin mạng lại cần phải được chú trọng hơn. Chính vì vậy, Luật an toàn thông tin mạng 2015 đã được Quốc hội thông qua.

Vậy 6 hành vi bị nghiêm cấm trong Luật an toàn thông tin mạng là gì?

Theo Điều 7 của Luật an toàn thông tin mạng 2015 thì:

1. Ngăn chặn việc truyền tải thông tin trên mạng, can thiệp, truy nhập, gây nguy hại, xóa, thay đổi, sao chép và làm sai lệch thông tin trên mạng trái pháp luật.

2. Gây ảnh hưởng, cản trở trái pháp luật tới hoạt động bình thường của hệ thống thông tin hoặc tới khả năng truy nhập hệ thống thông tin của người sử dụng.

3. Tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng của biện pháp bảo vệ an toàn thông tin mạng của hệ thống thông tin; tấn công, chiếm quyền điều khiển, phá hoại hệ thống thông tin.

4. Phát tán thư rác, phần mềm độc hại, thiết lập hệ thống thông tin giả mạo, lừa đảo.

5. Thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá nhân của người khác; lợi dụng sơ hở, điểm yếu của hệ thống thông tin để thu thập, khai thác thông tin cá nhân.

6. Xâm nhập trái pháp luật bí mật mật mã và thông tin đã mã hóa hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tiết lộ thông tin về sản phẩm mật mã dân sự, thông tin về khách hàng sử dụng hợp pháp sản phẩm mật mã dân sự; sử dụng, kinh doanh các sản phẩm mật mã dân sự không rõ nguồn gốc.

=>Như vậy, các hành vi như phát tán thư rác, phần mềm độc hại cũng đã bị nghiêm cấm. Chúng ta không cần ngày nào cũng phải xem hàng ngàn tin rác từ các tổng đài hay các cá nhân có ý đồ sai trái nữa. Ngoài ra, hành vi phát tán, sử dụng, thu thập và kinh doanh trái pháp luật thông tin của người khác cũng bị nghiêm cấm; điều đó cho thấy các trang mạng xã hội sẽ không thể sử dụng thông tin chúng ta vào mục đích kinh doanh được nữa.

Read More

Pháp nhân cũng phải chịu trách nhiệm hình sự

Pháp nhân cũng phải chịu trách nhiệm hình sự
Từ ngày 01/07/2016, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bắt đầu có hiệu lực thi hành. Theo đó, có một số điểm mới trong quá trình tố tụng được quy định như: 




- Bị can, bị cáo bao gồm cả pháp nhân.

- Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu.

- Bị cáo được quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa.

Sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân

Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang có những bước phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Song mặt trái của nền kinh tế thị trường kết hợp với tâm lý hưởng thụ, lối sống coi trọng chủ nghĩa thực dụng, cá nhân vị kỷ, tìm kiếm lợi nhuận là trên hết đã khiến cho một số chủ thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật, vi phạm nghiêm trọng lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, trong đó nhiều hành vi vi phạm pháp luật có tính chất và mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội do các pháp nhân thực hiện, chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực môi trường, sản xuất kinh doanh và các hoạt động quản lý kinh tế, xã hội khác như lĩnh vực quản lý thuế, thị trường tài chính, chứng khoán, đầu tư, bảo hiểm, đấu thầu xây dựng...

Đơn cử như qua thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về môi trường trong thời gian gần đây đã đặt ra yêu cầu bức thiết đối với việc quy định TNHS đối với pháp nhân. Tình trạng nhiều khu công nghiệp, cơ sở sản xuất sử dụng hệ thống ngầm dẫn nước thải chưa qua xử lý ra môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng như Nhà máy sản xuất bột ngọt Vedan, Nhà máy sản xuất khung nhôm định hình thuộc Công ty cổ phần công nghiệp Tung Kuang (Đài Loan) tại Cẩm Giàng, Hải Dương; Nhà máy cồn rượu thuộc Công ty cổ phần Đường Quảng Ngãi... đang có xu hướng gia tăng.

Mặt khác, tình trạng doanh nghiệp nhập phế liệu nhựa về nước ta dưới hình thức nhập nguyên liệu sản xuất hoặc tạm nhập, tái xuất vẫn tiếp tục xảy ra, phổ biến tại Hải Phòng, Quảng Ninh và TP. Hồ Chí Minh. Nghiêm trọng hơn, một số doanh nghiệp đã có thủ đoạn gian dối trong khai báo hải quan, thậm chí móc nối với một số tổ chức kiểm định, giám định để có kết luận hàng hoá đạt tiêu chuẩn về môi trường, nhằm được thông quan, qua đó đưa phế liệu, rác thải vào nước ta, cũng đang gia tăng.

Nhưng các vụ việc nêu trên hầu như không bị xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự đối với một số cá nhân nhất định. Việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính hoặc dân sự đối với các vụ vi phạm này đã bộc lộ những bất cập trong chính sách hình sự đối với việc xử lý các hành vi vi phạm về môi trường, từ đó dẫn đến những nghi ngờ các trường hợp phạm tội đã bị bỏ lọt làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực của công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói riêng. Mặt khác, trong số mười tội danh về tội phạm môi trường theo quy định của BLHS năm 1999 thì mới chỉ có hai tội danh bị khởi tố, điều tra và xét xử trên thực tế là Tội hủy hoại rừng và Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm.

Những bất cập nêu trên có thể xuất phát từ nhiều lý do cơ bản như: việc xác định hậu quả của hành vi phạm tội rất khó khăn, sự thỏa mãn dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính” hoặc sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực môi trường, nhưng đặc biệt là do việc xác định phạm vi chủ thể của tội phạm về môi trường ở Việt Nam còn bất cập, đó là chưa thiết lập chế định TNHS đối với pháp nhân, vì vậy mới chỉ dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính như phạt tiền hoặc đóng cửa, chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp, nhưng các biện pháp xử lý này không phải là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, nên các doanh nghiệp sẵn sàng chịu phạt tiền nhiều lần để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.

Thêm vào đó, việc truy cứu TNHS đối với người đứng đầu đại diện pháp nhân cũng không thể thực hiện được vì cấu thành tội phạm về môi trường đòi hỏi phải thỏa mãn dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền gây hậu quả nghiêm trọng”, nhưng trên thực tế, việc xử phạt hành chính chỉ áp dụng đối với pháp nhân chứ không phải đối với người đại diện của pháp nhân có hành vi vi phạm.
Chúng tôi cho rằng, đã đến lúc Nhà nước ta phải quy định TNHS đối với pháp nhân. Việc quy định TNHS đối với pháp nhân ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay có thể dựa trên một số cơ sở khoa học sau:

Một là, trước đây, sở dĩ pháp luật hình sự Việt Nam chưa thiết lập chế định TNHS đối với pháp nhân bởi trong thời gian qua, các vi phạm pháp luật do pháp nhân thực hiện chưa phổ biến và chưa tới mức nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, các hành vi vi phạm pháp luật của pháp nhân là phổ biến và có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội - đây là những điều kiện cơ bản để xác định hành vi do chủ thể thực hiện có phải là tội phạm hay không.  “Nếu pháp nhân không được coi là chủ thể của tội phạm tức là mọi hành vi, việc làm của pháp nhân cho dù có nguy hiểm đến đâu cũng không được coi là tội phạm và không bị xử lý bằng biện pháp nghiêm khắc nhất là hình phạt, thì Nhà nước sẽ không kiểm soát được các hành vi vi phạm pháp luật của pháp nhân và đặc biệt là đã không sử dụng biện pháp hữu hiệu là biện pháp hình sự để chống lại các vi phạm và phục hồi lại các quan hệ xã hội đã bị xâm hại. Cũng như đối với thể nhân, việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân và áp dụng hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của pháp nhân có ý nghĩa chống và vừa có ý nghĩa phòng ngừa tội phạm”1.

Hai là, trong mối tương quan giữa các trách nhiệm pháp lý thì TNHS thường được quan niệm là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Đối với các pháp nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, Nhà nước có thể áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc trách nhiệm dân sự đối với pháp nhân, còn người đứng đầu pháp nhân có thể bị áp dụng biện pháp trách nhiệm kỷ luật. Tuy nhiên, mức xử lý vi phạm hành chính đối với pháp nhân chưa có tính răn đe mạnh mẽ đối với các pháp nhân cũng như người đại diện của pháp nhân. Chẳng hạn: trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, pháp nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có thể bị xử phạt tối đa đến năm trăm triệu đồng, thậm chí có thể áp dụng biện pháp trách nhiệm dân sự với mức bồi thường rất cao như trong vụ Vedan. Mặc dù vậy, các biện pháp trách nhiệm pháp lý này vẫn không thể gánh vác được vai trò to lớn của biện pháp TNHS đối với pháp nhân; bởi lẽ, trong mối tương quan giữa các biện pháp trách nhiệm pháp lý cho thấy khi các biện pháp khác không đủ sức mạnh cưỡng chế cần thiết thì cần phải áp dụng TNHS, mặc dù có thể về hình thức, các biện pháp trách nhiệm pháp lý này đều có thể áp dụng phạt tiền, nhưng tính chất của phạt tiền với tư cách là hình phạt sẽ bảo đảm tính cưỡng chế nghiêm khắc hơn vì trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp TNHS cũng đặc biệt hơn rất nhiều so với việc áp dụng các biện pháp xử phạt thuộc trách nhiệm hành chính hoặc dân sự. Đặc biệt, pháp nhân cũng như người đại diện pháp nhân không bao giờ mong muốn tham gia vào quy trình tố tụng hình sự khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Ba là, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như tội phạm khủng bố, tội phạm rửa tiền, tội phạm buôn lậu, tội phạm môi trường, tội phạm buôn bán người và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác, chúng tôi cho rằng, việc bảo đảm sự tương thích của hệ thống pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế và pháp luật các nước khác trên thế giới là nhu cầu khách quan và tất yếu, trong đó có lĩnh vực pháp luật hình sự mà thiết thực nhất là việc tiếp thu kinh nghiệm của các nước đối với việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân. Trong pháp luật hình sự của các nước theo truyền thống pháp luật Anh - Mỹ như Anh, Mỹ, Canađa, Ốtxtrâylia2… hoặc các nước theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa như Pháp, Hà Lan, Bỉ, Thụy Sỹ…3 và cả Trung Quốc4 trước đây đều không thừa nhận TNHS của pháp nhân, tổ chức nhưng thời kỳ sau này đã thiết lập chế định TNHS đối với pháp nhân.

Trong các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia hoặc phê chuẩn như Công ước của Liên hợp quốc về tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng đều có quy định về việc khuyến nghị các quốc gia thiết lập chế định TNHS đối với pháp nhân. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã tuyên bố không bị ràng buộc bởi một số quy định mang tính tùy nghi, không bắt buộc áp dụng của Công ước như chế định TNHS đối với pháp nhân.

Chẳng hạn, Công ước của Liên hợp quốc về tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia quy định: “Mỗi quốc gia thành viên sẽ ban hành những biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia vào các tội phạm nghiêm trọng liên quan đến nhóm tội phạm có tổ chức và trong việc thực hiện những hành vi phạm tội theo quy định tại các điều 5, 6, 8 và 23 của Công ước này;

2. Với điều kiện không trái với các nguyên tắc pháp luật của quốc gia thành viên, pháp nhân có thể phải chịu TNHS, dân sự hoặc hành chính;

3. Trách nhiệm pháp lý của pháp nhân không ảnh hưởng đến TNHS của những thể nhân đã thực hiện hành vi phạm tội;

4. Đặc biệt là mỗi quốc gia thành viên phải đảm bảo áp dụng đối với những pháp nhân bị quy kết trách nhiệm pháp lý theo quy định tại điều này những biện pháp chế tài hiệu quả, tương ứng với tính chất và mức độ của tội phạm và đủ sức răn đe, có thể là chế tài hình sự, chế tài phi hình sự hoặc phạt tiền” (Điều 10).

Chúng tôi cho rằng, việc Việt Nam tuyên bố như vậy về trước mắt là hợp lý, thể hiện sự thận trọng trong việc chuyển hóa các quy phạm pháp luật quốc tế vào trong pháp luật quốc gia nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho quốc gia khi chúng ta gia nhập các công ước quốc tế. Tuy nhiên, để Việt Nam có thể thực hiện một cách hữu hiệu các quy định của công ước quốc tế cũng như nhận được sự đồng thuận của các quốc gia trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, đặc biệt là phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, thì Việt Nam cần nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của các nước trên thế giới và thực hiện từng bước chuyển hóa các quy phạm pháp luật quốc tế về vấn đề TNHS của pháp nhân vào trong pháp luật hình sự quốc gia nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất và đồng bộ cho sự hợp tác về lĩnh vực này.


Bộ luật tố tụng hình sự 2003 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực.

Read More

Thẩm quyền giám sát của Quốc hội

Thẩm quyền giám sát của Quốc hội
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.




Thẩm quyền giám sát của Quốc hội là nội dung được quy định tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân 2015.

Cụ thể tại Điều 4 quy định như sau: 

1. Thẩm quyền giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội được quy định như sau:

a) Quốc hội giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; giám sát tối cao văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; giám sát tối cao nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

b) Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; giám sát nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; giúp Quốc hội tổ chức thực hiện quyền giám sát tối cao theo sự phân công của Quốc hội;

c) Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; giám sát nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Ủy ban phụ trách; giúp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội;

d) Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát của Đoàn và tổ chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện nhiệm vụ giám sát tại địa phương; tham gia giám sát với Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương;
đ) Đại biểu Quốc hội chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát văn bản quy phạm pháp luật, việc thi hành pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; tham gia Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại các bộ, ngành, địa phương khi có yêu cầu.

2. Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.


Read More

Bảo đảm quyền được bồi thường và quyền khiếu nại, tố cáo

Bảo đảm quyền được bồi thường và quyền khiếu nại, tố cáo
Từ ngày 01/07/2016, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bắt đầu có hiệu lực thi hành. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực.



Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã có quy định về bảo đảm quyền được bồi thường và quyền được khiếu nại, tố cáo cho người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự. Cụ thể như sau:

Điều 31. Bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự

1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.

Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra.

2. Người khác bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại.

Điều 32. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.

Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức khiếu nại và có biện pháp khắc phục.

Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do Bộ luật này quy định.

Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống người khác.

Read More

Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính

Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính
Ngày 21/12/2015, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội công bố thủ tục hành chính lĩnh vực lao động, tiền lương, quan hệ lao động kèm theo Quyết định 1858/QĐ-LĐTBXH .




Theo điểm k của mục a, khoản 1, chương I, phần II quy định về Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính thì:

* Doanh nghiệp được cấp Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động khi có đủ các điều kiện sau đây:

- Đã thực hiện ký quỹ 2.000.000.000 đồng;

- Bảo đảm vốn pháp định theo quy định là 2.000.000.000 đồng. Doanh nghiệp cho thuê phải duy trì mức vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định trong suốt quá trình hoạt động.

- Có trụ sở theo quy định: địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp cho thuê phải ổn định và có thời hạn ít nhất từ 02 năm trở lên; nếu là nhà thuộc sở hữu của người đứng tên đăng ký kinh doanh thì trong hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại hoặc gia hạn Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động phải có giấy tờ hợp lệ, nếu là nhà thuê thì phải có hợp đồng thuê nhà có thời hạn thuê từ 02 năm trở lên.

- Người đứng đầu doanh nghiệp phải bảo đảm các điều kiện như sau: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, lý lịch rõ ràng; có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực cho thuê lại lao động từ 03 năm trở lên (xác định bởi hợp đồng về việc quản lý, điều hành hoạt động cho thuê lại lao động hoặc hợp đồng về việc quản lý, điều hành hoạt động cung ứng lao động); trong 03 năm liền kề trước khi đề nghị cấp Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động, không đứng đầu doanh nghiệp đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc không tái phạm hành vi giả mạo hồ sơ xin cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hồ sơ xin cấp, cấp lại hoặc gia hạn Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động.

* Đối với doanh nghiệp nước ngoài liên doanh với doanh nghiệp trong nước phải bảo đảm các điều kiện sau đây:

- Phải là doanh nghiệp chuyên kinh doanh cho thuê lại lao động, có vốn và tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp từ 10.000.000.000 đồng trở lên (được xác định bởi một trong các văn bản sau: Giấy phép đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó hoạt động cho thuê lại lao động là nội dung được cấp phép; Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động do cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại cấp; Văn bản khác do cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại cấp cho doanh nghiệp để tiến hành hoạt động cho thuê lại lao động).

- Đã có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực cho thuê lại lao động từ 05 năm trở lên (được xác định bởi hợp đồng mà doanh nghiệp đã tiến hành hoạt động cho thuê lại lao động, trong đó thể hiện thời gian hoạt động cho thuê lại lao động đã được cấp phép theo quy định nước sở tại và các tài liệu liên quan nếu có).

- Có giấy chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại chứng nhận doanh nghiệp và người đại diện phần vốn góp của doanh nghiệp chưa có hành vi vi phạm pháp luật nước sở tại hoặc pháp luật của nước có liên quan.

Các văn bản trên phải dịch ra tiếng Việt và được cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực và thực hiện việc hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.


Read More

Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH về lao động

Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH về lao động
Từ ngày 01/01/2016, Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều về hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất củaNghị định 05/2015/NĐ-CP. Theo đó, có những điểm mới đáng chú ý như sau:




1. Trường hợp nghỉ việc có lý do chính đáng

Các trường hợp sau được xem là nghỉ việc có lý do chính đáng:

- Do thiên tai, hỏa hoạn mà người lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể có mặt để làm việc.

- Bản thân, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố vợ, mẹ vợ, bố chồng, mẹ chồng, vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi hợp pháp, đứa trẻ mà người lao động mang thai hộ đang nuôi theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình bị ốm có giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.

(Trường hợp nghỉ việc có lý do chính đáng sẽ không bị áp dụng hình thức kỷ luật sa thải theo Điều 31 của Nghị định 05).

2. Bãi bỏ quy định về việc phải trả lương ngay trong tháng làm việc cho người lao động tại Khoản 1 Điều 5 Thông tư 23/2015/TT-BLĐTBXH, chỉ còn quy định về việc trả lương một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần và được trả vào thời điểm trả lương.

3. Sửa đổi, bổ sung quy định về tiền lương thực trả của ngày làm việc bình thường để tính tiền làm thêm giờ; tiền lương thực trả sẽ không bao gồm tiền lương làm thêm giờ, trả thêm khi làm vào ban đêm, tiền thưởng, tiền ăn giữa ca, hỗ trợ…

4. Tiền lương trả cho một ngày làm việc được xác định bằng tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc bình thường trong tháng (tuy nhiên số ngày làm việc trong tháng không được vượt quá 26 ngày).

5. Tiền lương để làm căn cứ trả lương cho người lao động trong thời gian ngừng việc, nghỉ hàng năm, nghỉ lễ, tết, nghỉ việc có hưởng lương, tạm ứng tiền lương theo Điều 26 của Nghị định 05 là tiền lương theo hợp đồng lao động quy định tại Khoản 1, Điểm a Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 4 Thông tư này.

6. Ngoài ra, Thông tư 47 còn hướng dẫn nhiều vấn đề về ủy quyền giao kết hợp đồng, hợp đồng lao động với người lao động cao tuổi…

Thông tư 19/2003/TT-BLĐTBXH hết hiệu kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực.

Read More

Thông qua danh sách ứng cử viên Bộ Chính trị

Thông qua danh sách ứng cử viên Bộ Chính trị
Hôm 21/12, hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã thông qua danh sách các ứng viên được giới thiệu vào Bộ Chính trị khóa 12, giao Bộ Chính trị tiếp tục chuẩn bị nhân sự trường hợp đặc biệt là ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá 11 quá tuổi, tái cử, để đảm nhiệm chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, trình hội nghị Trung ương 14 xem xét, thông qua.




Bế mạc hội nghị, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu nhấn mạnh các nội dung lớn, bao gồm nội dung các văn kiện trình Đại hội 12 của Đảng; đánh giá, kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa 11.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu quan trọng tại phiên bế mạc hội nghị.

Thông cáo của hội nghị nêu rõ:

1- Ban chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận tán thành, nhất trí cao với báo cáo của Bộ Chính trị về việc tiếp thu ý kiến đóng góp của đại hội đảng bộ các cấp, của đại biểu QH, MTTQ, các đoàn thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên và nhân dân góp ý vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng 12.

Trung ương thông qua các dự thảo văn kiện trình Đại hội 12 của Đảng; giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Trung ương, báo cáo tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị và ý kiến góp ý trực tiếp vào văn bản của các ủy viên Trung ương để hoàn chỉnh lần cuối các văn kiện trình Đại hội 12 gồm:

- Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá 11 với tiêu đề: "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".

- Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khoá 11 đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển 2016 - 2020.

2- Ban chấp hành Trung ương thảo luận và thông qua :

- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương khoá 11.
- Báo cáo tổng kết thực hiện nghị quyết Trung ương 4 khoá 11 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".

3- Ban chấp hành Trung ương thảo luận và thông qua dự thảo Quy chế làm việc của Đại hội 12, dự thảo Quy chế bầu cử tại Đại hội 12; giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến đóng góp của Trung ương, hoàn chỉnh dự thảo các quy chế nói trên để trình Đại hội Đảng 12.

4- Trung ương thảo luận và thông qua: dự kiến nội dung và chương trình làm việc Đại hội 12 trình Đại hội xem xét, quyết định. Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng từ ngày 20/1 đến ngày 28/1/2016 tại Hà Nội, trong đó phiên trù bị tổ chức vào ngày 20/1, khai mạc chính thức vào ngày 21/1.

5- Ban chấp hành Trung ương đã thảo luận dân chủ, cân nhắc kỹ lưỡng, thông qua danh sách các vị được Trung ương giới thiệu ứng cử ủy viên chính thức và ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 12 để trình Đại hội Đảng 12 xem xét, quyết định.

Trung ương cũng đã thảo luận dân chủ, cân nhắc kỹ lưỡng, thông qua danh sách các vị đủ điều kiện, trong độ tuổi được Trung ương nhất trí giới thiệu ứng cử ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và UB Kiểm tra Trung ương khoá 12; đồng thời giao Bộ Chính trị tiếp tục chuẩn bị nhân sự trường hợp đặc biệt là ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá 11 quá tuổi, tái cử, để đảm nhiệm chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, trình hội nghị Trung ương 14 xem xét, quyết định.

5- Ban chấp hành Trung ương đã xem xét cho ý kiến về: Báo cáo tổng kết thực hiện Quy chế làm việc của Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khoá 11; Báo cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng nhiệm kỳ Đại hội 11; Báo cáo tổng kết thực hiện Quy chế làm việc của UB Kiểm tra Trung ương khoá 11.

Trung ương giao Bộ Chính trị và UB Kiểm tra Trung ương nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Trung ương, hoàn chỉnh các báo cáo này và chuyển giao Ban chấp hành Trung ương khoá 12 xem xét, quyết định.

6- Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị chỉ đạo các tiểu ban: Văn kiện, Kinh tế - xã hội, Nhân sự, Tổ chức phục vụ Đại hội 12 và các cơ quan chức năng, tiếp tục hoàn thành các công việc còn lại để bảo đảm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng thành công tốt đẹp.


Tại hội nghị lần này, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận dân chủ và biểu quyết, nhất trí cao thông qua danh sách đề cử các ủy viên Trung ương khoá 11 (cả chính thức và dự khuyết) trong độ tuổi và các ủy viên Trung ương khoá 11 thuộc trường hợp "đặc biệt" tái cử khoá 12. Bỏ phiếu biểu quyết đề cử các nhân sự đủ tiêu chuẩn, điều kiện trong độ tuổi tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá 12; bỏ phiếu biểu quyết đề cử nhân sự Ủy ban Kiểm tra Trung ương khoá 12.

Các ủy viên Trung ương khoá 11 (cả chính thức và dự khuyết) cũng đã viết phiếu giới thiệu các ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá 11 đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong độ tuổi ứng cử 4 chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước.

Ngoài ra, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận tán thành, nhất trí cao với báo cáo của Bộ Chính trị về việc tiếp thu ý kiến đóng góp của đại hội đảng bộ các cấp, của đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên và nhân dân góp ý vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng 12.

Trung ương cũng thông qua các dự thảo văn kiện trình Đại hội 12 của Đảng; giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Trung ương, báo cáo tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị và ý kiến góp ý trực tiếp vào văn bản của các ủy viên Trung ương để hoàn chỉnh lần cuối các văn kiện trình Đại hội 12.

Ngoài ra, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và thông qua dự thảo quy chế làm việc của Đại hội 12, dự thảo quy chế bầu cử tại Đại hội 12; giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến đóng góp của Trung ương, hoàn chỉnh dự thảo các quy chế nói trên để trình Đại hội Đảng 12.

Trung ương cũng thảo luận và thông qua dự kiến nội dung và chương trình làm việc Đại hội 12 trình Đại hội xem xét, quyết định.

Theo đó, Đại hội lần thứ 12 của Đảng sẽ diễn ra từ ngày 20/1 đến ngày 28/1/2016 tại Hà Nội, trong đó phiên trù bị tổ chức vào ngày 20/1, khai mạc chính thức vào ngày 21/1.

Read More

LỢI DỤNG VIỆC TRÙNG TU ĐỂ THAM Ô TÀI SẢN.

LỢI DỤNG VIỆC TRÙNG TU ĐỂ THAM Ô TÀI SẢN.


Tình huống:

Trong một huyện nọ, có một đình Thần Hoàng được lên kế hoạch trùng tu. Trong thời gian thi công, một đội thầu xây dựng phụ trách đã đào bới lung tung mẫu đất phía trước đình Thần. Việc đào bới này sẽ ảnh hưởng đến các khối đá cổ chon sâu dưới lòng đất của ngôi đình cổ này. Ông từ trong đình đã hết sức can ngăn nhưng đội thầu xây dựng vẫn bất chấp và ngang ngược đào bới.

Kế hoạch trùng tu này được sự trợ vốn của Ủy ban huyện và người chịu trách nhiệm là ngài Chủ tịch huyện. Ông chủ tịch có một người trợ lý đắc lực. Anh này chính là người đã thuê đội thầu xây dựng đào bới lung tung với ý đồ riêng. Mặc dù chưa hỏi ý kiến của ngài chủ tịch huyện nhưng anh trợ lý này đã chủ động ra lệnh thi công làm ảnh hưởng đến di tích của ngôi đình. Sauk hi biết chuyện, ông chủ tịch kêu ngừng thi công nhưng với lý do của anh trợ lý là vì đã ký kết hợp đồng, nếu không tiếp tục thi công sẽ phải đền bù hợp đồng với số tiền trăm triệu nên ngài chủ tịch ra lệnh là chỉ trùng tu ở hạng mục bên ngoài và không được làm ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa.

Sau đêm bị đáo bới, các tảng đá cổ đã bị hư hại, ông từ lên Ủy ban huyện để trình bày vấn đề này. Anh trợ lý đã lừa dối ông từ với lý do đó là bọn ăn trộm chứ không phải là đội xây dựng mà anh ta đã thuê. Ông từ tin tưởng và đi về. Vì để thực hiện mưu đồ chiếm tiền công, anh ta muốn xây dựng lại mới hoàn toàn chứ không phải là trùng tu đình thờ vì số tiền trùng tu lớn hơn số tiền xây mới. Anh trợ lý đã thuê một người xe ôm chạy đụng ông từ làm ông bị gãy chân phải nằm viện 2 tháng. Trong thời gian 2 tháng đó, lợi dụng ông từ nằm viện và ngài chủ tịch thì không để ý đến việc thi công, anh trợ lý đã xây dựng mới hoàn toàn và số tiền dư ra từ việc trùng tu, anh ta đã hưởng trọn một mình. Tổng cộng số tiền tham ô là 250.000.000 đ. Đồng thời, những cổ vật xưa của ngôi đình cũng đã không còn nữa.

Xử lý tình huống:

*Trùng tu là hành động lưu giữ quá khứ. Trùng tu bảo vệ di tích là cả một vấn đề quan trọng không chỉ đối với một huyện, một xã mà là cả một xã hội, một đất nước.

*Anh trợ lý đã dối trên lừa dưới để trục lợi và anh không hề hiểu rõ thế nào là trùng tu =>vô tình đã làm mất đi giá trị di sản văn hóa.

- Có thể khẳng định rằng, tài sản mà anh trợ lý lấy từ việc xây mới hoàn toàn thay vì trùng tu là tài sản bất hợp pháp.

- Đây cũng thuộc về tài sản mà anh ta quản lý. Thế nhưng, anh ta đã không từ thủ đoạn và cách thức gian dối để chiếm đoạt tài sản.

=>Có thể xem như đây là hành vi vi phạm pháp luật hình sự: là một dạng tham ô tài sản, lén lấy tài sản và tương tự như trộm cắp.

Theo Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định như sau:

1.Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Gây hậu quả nghiêm trọng;

b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Phạm tội nhiều lần;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

đ) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.

5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

=>Như vậy, anh trợ lý đã vi phạm Điều 278 BLHS theo điểm a của Khoản 1, điểm b của Khoản 2 và điểm a của Khoản 3.

- Ngoài ra, anh trợ lý còn thuê người làm ông từ bị thương (gãy chân). Đây chính là hành vi cố ý gây thương tích.

Theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”

=>Như vậy, anh trợ lý đã vi phạm điểm h Khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự.

*Về phần ngài Chủ tịch huyện: Ta thấy ông chủ tịch là người thiếu trình độ, thiếu trách nhiệm, nhận thức chưa đầy đủ về quá trình trùng tu nên ông đã không đến xem việc tiến hành thi công mà đã giao hết quyền cho anh trợ lý. Đây chính là hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Theo Điều 144, luật hình sự năm 1999 quy định về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước:

1. Người nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý tài sản của Nhà nước từ một năm đến năm năm.

=>Như vậy, ông chủ tịch có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý tài sản của Nhà nước từ một năm đến năm năm theo khoản 4 Điều 144 BLHS.

Tóm lại:

Quốc hội đã ban hành Luật di sản văn hóa. Thế nhưng, nhiều cán bộ, nhà chức trách chưa hiểu rõ luật vẫn để hậu quả nghiêm trọng xảy ra làm mất đi những giá trị văn hóa cổ xưa. 

Cần phải phổ biến những quy định về luật bảo tồn di tích đến các vị có chức có quyền để việc trùng tu đạt hiệu quả hơn. Tránh để các trường hợp xấu xảy ra như tình huống trên.

Read More

Đối tượng áp dụng và mức thu lệ phí thẻ căn cước công dân.

Đối tượng áp dụng và mức thu lệ phí thẻ căn cước công dân.
Từ ngày 01/01/2016, Luật Căn cước công dân bắt đầu có hiệu lực thi hành. Song song với Luật căn cước công dân là các văn bản hướng dẫn thi hành mà nổi bật là Thông tư 170/2015/TT-BTC. Thông tư 170/2015/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý lệ phí thẻ CCCD.




Thẻ căn cước công dân là gì?

Thẻ căn cước hay thẻ nhận dạng cá nhân, hay là chứng minh thư, chứng minh nhân dân, là một loại tài liệu nhận dạng có thể được sử dụng để xác minh các chi tiết của bản sắc cá nhân của một người dưới hình thức một thẻ nhỏ, kích thước theo một tiêu chuẩn nhất định, nó thường được gọi là một thẻ nhận dạng (IC). Thẻ căn cước là những điểm cơ bản về gốc tích, quan hệ thân tộc, đặc điểm nhận dạng, đủ để phân biệt từng cá nhân trong xã hội.

Vậy mức thu lệ phí là bao nhiêu?

Theo Điều 6 của Thông tư 170/2015/TT-BTC thì:

1. Mức thu lệ phí khi đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân như sau:

a) Đổi: 50.000 đồng/thẻ Căn cước công dân.

b) Cấp lại: 70.000 đồng/thẻ Căn cước công dân.

2. Công dân thường trú tại các xã, thị trấn miền núi; các xã biên giới; các huyện đảo nộp lệ phí thẻ Căn cước công dân bằng 50% mức thu quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Lệ phí thẻ Căn cước công dân thu bằng Đồng Việt Nam (VNĐ).

Với mức thu lệ phí nêu trên thì các đối tượng áp dụng sẽ được phân chia như thế nào?

Điều 2. Đối tượng nộp lệ phí

Công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên khi làm thủ tục đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân phải nộp lệ phí thẻ Căn cước công dân theo quy định tại Thông tư này.

Điều 3. Đối tượng không phải nộp lệ phí

1. Công dân từ đủ 14 tuổi trở lên làm thủ tục cấp thẻ Căn cước công dân lần đầu.
2. Đổi thẻ Căn cước công dân khi công dân đủ 25 tuổi, đủ 40 tuổi và đủ 60 tuổi.
3. Đổi thẻ Căn cước công dân khi có sai sót về thông tin trên thẻ Căn cước công dân do lỗi của cơ quan quản lý căn cước công dân.


Điều 4. Đối tượng được miễn lệ phí

1. Công dân đã được cấp Chứng minh nhân dân 9 số và Chứng minh nhân dân 12 số nay chuyển sang cấp thẻ Căn cước công dân theo Luật Căn cước công dân

2. Đổi thẻ Căn cước công dân khi Nhà nước quy định thay đổi địa giới hành chính.

3. Đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân cho công dân là bố, mẹ, vợ, chồng, con dưới 18 tuổi của liệt sỹ; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; con dưới 18 tuổi của thương binh và người hưởng chính sách như thương binh; bệnh binh; công dân thuộc các xã, thị trấn vùng cao theo quy định của Ủy ban Dân tộc; công dân thuộc hộ nghèo theo quy định của pháp luật.

4. Đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân cho công dân dưới 18 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ, không nơi nương tựa.

=> Lệ phí thẻ Căn cước công dân là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, cá nhân thuộc đối tượng nộp lệ phí phải nộp phí theo quy định và các cơ quan liên quan phải chịu trách nhiệm thi hành Thông tư này.

Read More

Ai sẽ là người giữ trọng trách – ai sẽ là bộ trưởng?

Ai sẽ là người giữ trọng trách – ai sẽ là bộ trưởng?
Sự quan tâm của người dân về những người xứng đáng vào những vị trí quan trọng là sự quan tâm chính đáng.




Ai là Tổng bí thư, ai là Chủ tịch nước, ai là Thủ tướng, ai là Chủ tịch Quốc hội, ai là Bộ trưởng Bộ A, Bộ B...? Câu hỏi về nhân sự kiểu này không hiếm ở nước ta hiện nay.
Sự quan tâm của người dân về những người xứng đáng vào những vị trí quan trọng là sự quan tâm chính đáng.

Hỏi, đáp cũng chỉ là hỏi đáp vì ai cũng hiểu là nhân sự của Đảng thì do Đảng quyết, và cũng giống như chính sách, quyết đúng thì tốt mà quyết sai thì hại.

Trước khi Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 11 khai mạc tại Hà Nội, một trong các chủ đề được chú ý và cũng gây nhiều đồn đoán nhất là nhân sự cấp cao.

Ngoài các vị trí chủ chốt như chức Tổng Bí thư hay Thủ tướng Chính phủ, dư luận cũng quan tâm tới nhân vật sẽ giữ cương vị bộ trưởng quốc phòng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực hiện đại hóa quân đội để đối phó với các thách thức mới.

Lâu nay, một số nguồn tin không chính thống dự đoán bộ trưởng đương nhiệm, Đại tướng Phùng Quang Thanh, có thể sẽ nhận một chức vụ lớn hơn, và chiếc ghế của ông Thanh sẽ do người khác đảm nhiệm.

Nhà quan sát chính trị Việt Nam tại Úc châu, Giáo sư Carlyle Thayer, vừa gửi cho BBC một số nhận định của ông:

"Theo đánh giá của tôi, Đại tướng Phùng Quang Thanh sẽ ở lại Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và tiếp tục vai trò Bộ trưởng Quốc phòng.

Đây là một quá trình gồm hai bước. Đầu tiên, ông Thanh phải được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XI tuần tới. Điều này quá dễ dàng.

Bước thứ hai, Tướng Thanh phải trúng cử trong kỳ bầu cử Quốc hội vào tháng Năm 2011. Một lần nữa, không có nghi ngờ gì khả năng ông sẽ tái đắc cử.

Sau đó, ông Thanh sẽ được Thủ tướng tái bổ nhiệm vào vị trí ở bộ quốc phòng. Ông cũng phải được Ban Chấp hành Trung ương mới thông qua trước khi chuyển sang cho Quốc hội chuẩn thuận chức vụ bộ trưởng .

Tất cả những điều ở trên chỉ là thủ tục, và tôi không thấy có trở ngại gì đối với Đại tướng Phùng Quang Thanh.

Người kế nhiệm

Trong báo chí và trên các blog cá nhân, từng có thông tin cho rằng một trong các thứ trưởng quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, có khả năng sẽ vào Bộ Chính trị và thay thế ông Thanh trong tương lai
.
Thậm chí có người còn nói đó là thông tin do tôi tung ra. Tuy nhiên, không có chuyện đó và bình luận của tôi về việc này trước sau vẫn là:

Nhân vật kế nhiệm ông Phùng Quang Thanh trong tương lai phải là một người có kinh nghiệm chiến đấu, từng chỉ huy quân khu và từng đảm nhiệm các vị trí quan trọng như Tổng tham mưu trưởng hay Thứ trưởng. Tướng Vịnh không đạt các yêu cầu này.

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã thực hiện xuất sắc vai trò thứ trưởng của ông trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng.

Ông cũng là người đã chịu trách nhiệm tổ chức các cuộc gặp quốc phòng mà Việt Nam đăng cai với tư cách chủ tích Asean năm vừa qua, tổng cộng hơn 30 cuộc.

Dấu son lớn nhất của ông là đã tổ chức thành công cuộc họp bộ trưởng quốc phòng Asean với các đối tác ADMM+ lần đầu tiên trong năm 2010.

Quân đội Việt Nam chỉ có một vị trí trong Bộ Chính trị, và hiện vị trí đó do Bộ trưởng Quốc phòng đảm nhiệm. Tôi không cho là con số thành viên Bộ Chính trị của ngành quốc phòng sẽ được tăng lên.
Muốn trở thành ủy viên Bộ Chính trị, Trung tướng Vịnh phải được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Có tin ông đã được lựa chọn để tham dự Đại hội Đảng lần này.

Thông thường, quân đội Việt Nam nắm giữ khoảng 10% số ghế trong Ban Chấp hành Trung ương. Tôi cho là Tướng Vịnh sẽ trở thành ủy viên Ban Chấp hành lần này.

Thế nhưng xuất thân của ông Vịnh là ngành tình báo quân đội chứ không phải tác chiến, nên ông khó có cơ hội trở thành bộ trưởng quốc phòng.

Dĩ nhiên ông Nguyễn Chí Vịnh hoàn toàn có thể tiếp tục cương vị thứ trưởng với trọng trách đối ngoại. Ông cũng có thể là ứng viên cho chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nếu như vị trí này khuyết người.

*Vì là quan trọng, nên việc chuẩn bị nhân sự Đại hội 12 đã được làm từ vài năm nay, từ câu chuyện tiêu chuẩn, độ tuổi cho đến việc luân chuyển từ trung ương về địa phương và ngược lại và nhất là nhân sự đã quyết tại đại hội đảng bộ các cấp, ngành trong năm nay.

Tất cả gần như đã hoàn tất, chỉ còn đợi gút lại tại Đại hội toàn quốc về nhân sự cấp cao cho cả hệ thống.

Nhưng chính cái “gút lại" cuối cùng này lại mang đến nhiều thứ để suy ngẫm.

- Một là, những vị trí chủ chốt trong hệ thống vẫn chưa hẳn đã rõ, cơ hội vẫn để ngỏ cho những vị trí này.

Nói cách khác, đã có sự xuất hiện tính đa dạng, đa chiều trong quyết về nhân sự.

Chưa có nhiệm kỳ đại hội nào mà thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội lại chưa có ngay Bí thư, phải đợi, phải ngã ngũ sau.

- Hai là, gắn với điểm vừa nêu chính là đã xuất hiện nhiều kênh nhân sự trong ban lãnh đạo cao nhất của Đảng.

Nền kinh tế thị trường mà ta đang chuyển sang bằng được đã và đang tác động không nhỏ tới hệ thống chính trị bằng các giá trị rất đời thường...

Quyền lực chính trị sinh ra quyền lực kinh tế, đến lượt mình quyền lực kinh tế lại hỗ trợ, củng cố và gia tăng quyền lực chính trị.

Theo cách này, rất có thể sẽ có đột biến “bất ngờ” trong nhân sự cao cấp sắp tới.

- Ba là, số lượng Ban chấp hành Trung ương qua các kỳ Đại hội và đến Đại hội lần này gia tăng. Tính chất “mặt trận” của Ban chấp hành Trung ương ngày càng rõ.

Đông hơn thì cơ hội vào Trung ương nhiều hơn, tiêu chuẩn phải mở ra, tính rộng rãi, tập hợp theo kiểu “mặt trận” tốt hơn. Đông nhưng vẫn cần tinh, vì đây là nơi hoạch định chính sách cho đất nước.

- Bốn là, bên cạnh số lượng là vấn đề chất lượng.

Tiêu chuẩn chất lượng cho những người vào Trung ương là khá rõ.

Tuy nhiên thực tế cho thấy sau khi vào rồi, phụ trách các công việc được phân công thì một số người năng lực, trình độ không đáp ứng.

Bộ trưởng đứng đầu một bộ mà năng lực, trình độ không tương xứng thì ngành, lĩnh vực đó về cơ bản là vất.

Đã đến lúc cần tổng kết qua mấy nhiệm kỳ Đại hội gần đây nhất, ví dụ như tỉ lệ phần trăm các bộ trưởng nguyên là bí thư tỉnh hoàn thành tốt trọng trách là tư lệnh ngành hoặc tỉ lệ phần trăm các ủy viên Trung ương trong độ tuổi dưới 45 hoàn thành tốt công việc được giao...

Chỉ có như vậy mới đưa ra dự kiến nhân sự tới tốt hơn, chuẩn hơn.Thậm chí phải xem lại tiêu chuẩn.

- Năm là, có thêm một thứ “thi” mới bổ sung vào hệ thống thi cử nước ta: thi công chức, viên chức, thi nâng ngạch công chức, thi chức vụ lãnh đạo, quản lý... và bây giờ là thi vào cấp ủy, thi vào Trung ương.

Cuộc thi này không chính thức có, không ai định ra quy trình, tiêu chí... nhưng thực tế vẫn tồn tại.

Nguyện vọng vào Trung ương có gì là xấu, nếu không nói là quá tốt. Tuy nhiên, điều đáng nói lại là các phương pháp, cách thức “thi” vào Trung ương, có thể nói là đa dạng, phong phú, tích cực có và tiêu cực cũng có.

Dân chúng chỉ mong được như những gì có người đã nói không để vào Trung ương những người tham nhũng, cơ hội, những nhân vật 2Đ - đất và đô la, như Chủ tịch nước từng nhắc đến.



Read More