BẢNG TIẾNG VIỆT HIỆP ĐỊNH TPP: Vấn đề
xóa bỏ thảo luận đột xuất và xuất nhập khẩu (phần II.2)
( Chương II, mục B: NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ QUỐC
GIA VÀ MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA)
Hiệp
định đối tác thương mại xuyên Thái bình dương TPP (Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement) đã công bố chính thức bản tiếng Anh, với
tổng cộng 30
chương TPP
đã quy định nhiều vấn đề chung giữa 12
nước thành viên. Với chương
II: Vấn đề thảo luận đột xuất,hạn
chế xuất và nhập khẩu hàng hóa cũng như
tục nhập khẩu đã được quy định cụ thể chi tiết.
PHẦN II:
MỤC
B: NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ QUỐC GIA VÀ MỞ CỬA
THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA
Thảo
luận đột xuất
Trong trường hợp thảo
luận đột xuất, mỗi bên phải chỉ định một đầu
mối Liên
hệ Thương mại Hàng hóa nhằm tạo điều kiện thông tin liên lạc giữa các
Bên về mọi vấn đề thuộc Chương này, bao gồm mọi yêu cầu và thông tin được chuyển
tải theo Điều
26.5 liên quan đến các biện pháp của một Bên tác động đến hoạt động của
Chương này.
Bất
cứ Bên nào cũng có quyền yêu
cầu thảo luận đột xuất nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh tại chương
này, trừ trường hợp vấn đề có thể giải quyết theo
cơ chế tham vấn tương ứng của từng Chương cụ thể, mà bên yêu cầu tin rằng
có thể ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của mình trong thương mại hàng hóa bằng cách
cung
cấp một văn bản yêu cầu một Bên khác ( Bên được yêu cầu) thông qua các
đầu mối liên hệ thương mại hàng hóa của Bên yêu cầu và Bên được yêu cầu. Yêu cầu
phải được lập thành văn bản, xác định lý do yêu cầu, mô tả các vấn đề mà Bên
yêu cầu quan tâm, chỉ dẫn đến Chương liên quan. Bên yêu cầu có thể cung cấp bản
sao của yêu cầu cho tất cả các Bên khác.
Trong phạm vi mà Bên nhận yêu cầu xét
thấy có vấn đề cần được giải quyết theo cơ chế tham vấn của một Chương khác,
Bên đó phải thông báo kịp thời cho các đầu mối liên lạc Thương mại Hàng hóa của
Bên yêu cầu, bao gồm các lý
do yêu cầu cần được giải quyết theo cơ chế khác và chuyển tiếp yêu cầu
và thông báo đó cho đầu mối liên lạc tương ứng của các Bên được chỉ định theo Điều
27.5 (Đầu mối liên lạc) để có hành động thích hợp
Bên nhận yêu cầu phải trả lời bằng văn
bản cho Bên yêu cầu trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong
thời hạn đó Bên yêu cầu nhận được văn bản trả lời, các Bên yêu cầu và Bên được
yêu cầu sẽ họp trực tiếp hoặc thông qua phương tiện điện tử để thảo luận về các
vấn đề được xác định trong yêu cầu. Nếu các Bên thảo luận chọn gặp trực tiếp,
cuộc họp sẽ diễn ra trên lãnh thổ của Bên yêu cầu, trừ trường hợp các bên thảo
luận có quyết định khác.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được
yêu cầu theo khoản 2, Bên được yêu cầu phải trả
lời bằng văn bản cho Bên yêu cầu. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Bên
yêu cầu nhận được văn bản trả lời, các Bên yêu cầu và Bên được yêu cầu
("các Bên thảo luận") sẽ họp trực tiếp hoặc thông qua phương
tiện điện tử để thảo luận về các vấn đề được xác định trong yêu cầu.
Nếu các Bên thảo luận chọn gặp trực tiếp, cuộc họp sẽ diễn ra trên lãnh thổ của
Bên được yêu cầu, trừ trường hợp các bên thảo luận có quyết định khác.
Bất kỳ Bên nào cũng có quyền gửi yêu
cầu bằng văn bản cho các Bên thảo luận để tham gia thảo luận đột xuất.
Nếu vấn đề không được giải quyết trước khi nhận được yêu cầu và các Bên thảo
luận đồng ý, Bên đó có thể tham gia vào các cuộc thảo luận đột xuất được tổ
chức quy định tại theo Điều này với các điều kiện do các Bên thảo luận quyết
định.
Nếu Bên yêu
cầu cho rằng một vấn đề là khẩn cấp thì có quyền yêu cầu cuộc thảo luận trong
một khoảng thời gian ngắn hơn so với quy định trong khoản
4. Mỗi bên có thể yêu cầu thảo luận đột xuất khẩn cấp khi một biện
pháp:
(a) được áp
dụng mà không thông báo trước hoặc không có cơ hội cho các Bên tham gia thảo
luận đột xuất quy định tại các khoản 2, 3 và 4; và
(b) đe doạ
cản trở việc nhập khẩu, bán hoặc phân phối hàng hóa có xuất xứ đang trong quá
trình được vận chuyển từ Bên xuất khẩu đến Bên nhập khẩu, hoặc chưa được giải
phóng từ khu kiểm soát hải quan, hoặc còn lưu trữ trong một kho hàng do Cơ quan
Hải quan của Bên nhập khẩu kiểm soát.
Các cuộc thảo luận đột xuất theo
Điều này sẽ được giữ bí mật và không làm phương hại đến các quyền của bất kỳ
Bên nào, kể cả các quyền liên quan đến giải quyết tranh chấp theo Chương
28 (Giải quyết tranh chấp).
Hạn chế xuất nhập khẩu
Trừ trường hợp Hiệp định TPP quy định, ngoài ra không Bên nào có quyền cấm,
hạn chế nhập khẩu bất kỳ hàng hóa nào hoặc hạn
chế, cấm xuất khẩu, bán để xuất khẩu bất kỳ hàng hóa nào. Trừ trường
hợp quy định tại Điều XI của GATT 1994.
Tuy nhiên các Bên có quyền cấm, hạn chế hàng khóa xuất, nhập khẩu từ các
nước ngoài khối TPP. Nhưng trong trường này nếu có yêu cầu từ Bên khác
cho rằng việc cấm, hạn chế hàng hóa xuất nhập khẩu đang ảnh hưởng lợi ích của
Bên đó thì Bên cấm phải tham khảo ý kiến để tránh can thiệp hoặc làm ảnh hưởng về
giá cả, tiếp thị, phân phối của Bên khác.
Không bên
nào được đặt ra điều
kiện nhập
khẩu, tham gia nhập khẩu với Bên khác khi yêu cầu người của Bên khác
phải thiết lập, duy
trì quan hệ hợp đồng hay quan hệ khác với nhà phần phối trong lãnh thổ
của mình.
Với hàng
tái sản xuất: nếu một Bên thông qua hoặc duy trì các biện pháp cấm hoặc hạn
chế nhập khẩu các hàng hóa đã qua sử dụng, Bên đó không được áp dụng
những biện pháp đó đối với sản
phẩm tái sản xuất.
Với thủ
tục cấp phép nhập khẩu: Không bên nào được áp dụng, duy trì 1 biện pháp
không phù hợp với Hiệp
định cấp phép nhập khẩu. Sau khi Hiệp
định TPP có hiệu lực với một bên, bên đó phải thông báo cho các bên
khác về thủ
tục cấp phép nhập khẩu hiện tại của mình (nếu có).
Thủ tục cấp
phép nhập khẩu hiện tại của một Bên sẽ được coi tuân theo thủ tục khoản
2 nếu:
(a) Bên đó
đã thông báo thủ tục này cho Uỷ
ban về Cấp phép Nhập khẩu quy định tại Điều
4 của Hiệp
định cấp phép nhập khẩu cùng với các thông tin quy định tại Điều
5.2 của Hiệp định này;
(b) Bên đó
đã cung cấp các thông tin về thủ tục được yêu cầu trong bảng câu hỏi hàng năm
về thủ tục cấp phép nhập khẩu quy định tại Điều
7.3 của Hiệp
định cấp phép nhập khẩu cho Uỷ
ban về Cấp phép Nhập khẩu trước ngày có hiệu lực của Hiệp định này; và
(c) Bên đó
đã cung cấp kèm theo thông báo trong mục (a) hoặc bản trả lời câu hỏi hàng năm
trong mục (b) thông tin cần phải thông báo cho các Bên khác của Hiệp định này
theo khoản 6. 4. Mỗi Bên phải tuân thủ Điều
1.4 (a) của Hiệp
định cấp phép nhập khẩu đối với mọi thủ tục cấp phép nhập khẩu mới hoặc
sửa đổi.
Mỗi Bên
phải công bố thông tin cần thiết trên trang web chính thức của chính phủ theo Điều
1.4 (a) của Hiệp định cấp phép nhập khẩu từ nguồn mà đã được thông báo
cho Uỷ
ban về Cấp phép Nhập khẩu.
Mỗi Bên
thông báo cho Bên kia về thủ
tục cấp phép nhập khẩu mới hoặc sửa đổi của mình bất cứ khi nào có thể
và không muộn hơn 60 ngày trước khi thủ tục mới hoặc sửa đổi có hiệu lực. Không
Bên nào được thông báo chậm hơn 60 ngày sau ngày thủ tục đó được công bố. Thông
báo phải bao gồm mọi thông tin cần thiết theo khoản
Mỗi Bên
phải thông báo thủ tục cấp phép nhập khẩu mới hoặc sửa đổi cho Uỷ ban về Cấp
phép Nhập khẩu theo các Điều
5.1 đến 5.3 của Hiệp định cấp phép nhập khẩu và kèm theo thông báo mọi
thông tin cần thiết cho các Bên khác của Hiệp định này theo khoản
6.
(a) Một
thông báo được thực hiện theo quy định tại khoản
2, 3, hoặc 5 sẽ nêu các thông tin sau nếu thủ tục thuộc diện phải thông
báo:
(i) các
điều khoản của giấy phép nhập khẩu cho một sản phẩm bất kỳ có hạn chế về người
dùng cuối được phép; hoặc
(ii) Bên
đó áp đặt một trong các điều kiện sau để được cấp giấy phép nhập khẩu sản phẩm:
(A) là
thành viên của một hiệp
hội ngành công nghiệp;
(B) yêu
cầu cấp phép nhập khẩu được hiệp hội ngành công nghiệp chấp thuận;
(C) đã
từng nhập khẩu sản phẩm đó hoặc các sản phẩm tương tự;
(D) yêu
cầu về năng
lực sản xuất tối thiểu của nhà nhập khẩu hoặc người dùng cuối;
(E) yêu
cầu về vốn
đăng ký tối thiểu của nhà nhập khẩu hoặc người dùng cuối; hoặc
(F) một
mối quan
hệ hợp đồng hay khác mối quan hệ khác giữa các nhà nhập khẩu và nhà
phân phối trong lãnh thổ của Bên đó.
(b) Một
thông báo bất kỳ trong đó, căn cứ vào điểm (a), nêu rõ sự tồn tại của một giới
hạn về người dùng cuối được cho phép hoặc một điều kiện cấp giấy phép phải:
(i) liệt
kê toàn bộ sản phẩm có áp dụng giới hạn về người dùng cuối hoặc điều kiện cấp
giấy phép; và
(ii) mô tả
các giới hạn người dùng cuối hoặc điều kiện cấp phép.
Mỗi Bên
phải trả lời trong vòng 60 ngày thắc mắc hợp lý của một Bên khác liên quan đến
quy định cấp phép và thủ tục nộp đơn xin giấy phép nhập khẩu, trong đó có đủ
điều kiện nộp đơn áp dụng đối với người, doanh nghiệp, và tổ chức để làm cho
một ứng dụng, các cơ quan quản lý liên quan, và danh sách các sản phẩm cần cấp
phép.
Trường hợp một Bên đã từ chối hồ sơ cấp giấyphép nhập khẩu đối với một hàng hoá của một Bên khác thì phải cung cấp cho
người nộp đơn văn bản giải trình lý do từ chối theo yêu cầu của người nộp đơn
và trong một thời hạn hợp lý sau khi nhận được yêu cầu.
Không Bên
nào phải áp dụng một thủ tục cấp phép nhập khẩu đối với hàng hoá của một Bên
khác trừ khi hàng hóa đó đáp ứng được yêu cầu của khoản 2 hoặc khoản 4 về mặt
thủ tục.
Bài viết có sự tham khảo từ thuvienphapluat.vn